Sinh thiết thận là gì? Các công bố khoa học về Sinh thiết thận

Sinh thiết thận là một phương pháp y tế được sử dụng để thu thập mẫu mô thận từ bệnh nhân. Quá trình này thường được thực hiện bằng cách chèn một kim nhỏ qua da...

Sinh thiết thận là một phương pháp y tế được sử dụng để thu thập mẫu mô thận từ bệnh nhân. Quá trình này thường được thực hiện bằng cách chèn một kim nhỏ qua da và các mô xung quanh, sau đó lấy một mẫu mô từ tổ chức thận để kiểm tra và chẩn đoán các vấn đề liên quan đến chức năng thận. Sinh thiết thận được sử dụng để xác định tổn thương và viêm nhiễm, phân biệt giữa các căn bệnh thận khác nhau và đánh giá mức độ tổn thương thận.
Quá trình sinh thiết thận thường được thực hiện trong phòng phẫu thuật hoặc phòng chẩn đoán hình ảnh. Trước khi thực hiện quá trình, bệnh nhân thường được khuyến nghị nghỉ ngơi và không ăn uống trong vòng 6-8 giờ trước khi thực hiện sinh thiết.

Quá trình sinh thiết thận bắt đầu bằng việc bệnh nhân được đặt dưới tác dụng của thuốc gây tê hoặc thuốc tê cục bộ. Sau đó, các hiệu chỉnh nhỏ sẽ được thực hiện để định vị vị trí chính xác của thận và để tránh các cơ quan và mạch máu lớn gần đó.

Một số phương pháp phổ biến để thu mẫu mô thận trong quá trình sinh thiết bao gồm:

1. Sinh thiết giác nguyên (Tru-cut): Một kim dài và mỏng được chèn qua da cho đến thận để lấy một mẫu mô nhỏ. Phương pháp này thường được sử dụng khi cần xác định tổn thương, viêm nhiễm và các bệnh khác liên quan đến mô thận.

2. Sinh thiết kim nhỏ (Fine needle aspiration - FNA): Sử dụng một kim rất nhỏ, mẫu mô từ thận được hút ra thông qua da. Phương pháp này thường được sử dụng để xác định tình trạng ung thư và các khối u trong thận.

Sau quá trình sinh thiết, mẫu mô thận được gửi đi kiểm tra và phân tích tại phòng xét nghiệm. Kết quả từ sinh thiết thận cung cấp thông tin chi tiết về bệnh lý và tình trạng sức khỏe của thận, giúp bác sĩ đưa ra chẩn đoán chính xác và lựa chọn phương pháp điều trị phù hợp.
Trước khi thực hiện sinh thiết thận, bệnh nhân thường được yêu cầu cung cấp thông tin về lịch sử bệnh và thuốc đang sử dụng. Bác sĩ sẽ cung cấp hướng dẫn cho bệnh nhân về quy trình và giải đáp mọi thắc mắc.

Quá trình sinh thiết thận được thực hiện bởi một bác sĩ chuyên khoa trong một môi trường y tế được trang bị các thiết bị và dụng cụ cần thiết. Bệnh nhân phải nằm nằm nghiêng hoặc nằm bất động trên một bàn phẫu thuật.

Bước 1: Chuẩn bị

- Vùng da xung quanh vị trí sinh thiết thận sẽ được rửa sạch và tiệt trùng bằng dung dịch cồn y tế.
- Bệnh nhân sẽ được tiêm một dạng tê tại vị trí cần sinh thiết, để giảm đau và khó chịu trong quá trình tiến hành.

Bước 2: Thực hiện sinh thiết

Tùy thuộc vào phương pháp được sử dụng (sinh thiết giác nguyên hay sinh thiết kim nhỏ), bác sĩ sẽ tiến hành các bước sau:

- Sinh thiết giác nguyên: Một kim hình trụ sẽ được đưa qua da, mô mềm và vào trong thận để lấy mẫu mô. Đôi khi, quá trình này được thực hiện dưới sự hỗ trợ của hình ảnh chụp CT hoặc siêu âm để định vị chính xác vùng cần lấy mẫu.
- Sinh thiết kim nhỏ: Một kim nhỏ và mỏng sẽ được đưa qua da và vào trong thận để hút một lượng nhỏ mô. Quá trình này thường được theo dõi bằng hình ảnh siêu âm để định vị chính xác vị trí sinh thiết.

Bước 3: Xử lý mẫu mô

Mẫu mô thận được lấy ra sau quá trình sinh thiết sẽ được gửi tới phòng xét nghiệm để được xem xét bằng kính hiển vi và phân tích. Các nhà bác học sau đó sẽ đánh giá mẫu mô để xác định loại bệnh thực sự và mức độ tổn thương.

Bước 4: Theo dõi và chẩn đoán

Kết quả từ sinh thiết thận sẽ được gửi về cho bác sĩ chuyên khoa để đánh giá. Bác sĩ sẽ dựa vào kết quả này và kết hợp với các nguồn thông tin khác để đưa ra chẩn đoán cuối cùng cho bệnh nhân và đề xuất các phương pháp điều trị phù hợp.

Quá trình sinh thiết thận thường an toàn và đáng tin cậy, nhưng như bất kỳ quá trình y tế nào, có thể tồn tại một số rủi ro như chảy máu, nhiễm trùng hoặc tổn thương cơ quan xung quanh. Tuy nhiên, những rủi ro này là hiếm và được kiểm soát tốt bởi những bác sĩ và nhân viên y tế có kinh nghiệm.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "sinh thiết thận":

Hướng dẫn của Liên đoàn các Hội Thần kinh Châu Âu/Hiệp hội Thần kinh Ngoại vi về việc sử dụng sinh thiết da trong chẩn đoán thần kinh sợi nhỏ. Báo cáo của một nhóm làm việc chung giữa Liên đoàn các Hội Thần kinh Châu Âu và Hiệp hội Thần kinh Ngoại vi Dịch bởi AI
European Journal of Neurology - Tập 17 Số 7 - Trang 903 - 2010

Đặt vấn đề:  Việc sửa đổi các hướng dẫn về sử dụng sinh thiết da trong chẩn đoán bệnh thần kinh ngoại vi, được công bố vào năm 2005, đã trở nên cần thiết do việc xuất bản nhiều bài báo liên quan hơn. Hầu hết các nghiên cứu mới tập trung vào bệnh thần kinh sợi nhỏ (SFN), một phân loại bệnh thần kinh mà chẩn đoán đã được phát triển lần đầu tiên qua việc kiểm tra sinh thiết da. Sự sửa đổi này tập trung vào việc sử dụng kỹ thuật này để chẩn đoán SFN.

Phương pháp:  Các thành viên trong nhóm nhiệm vụ đã tìm kiếm cơ sở dữ liệu Medline từ năm 2005, năm công bố hướng dẫn EFNS đầu tiên, đến ngày 30 tháng 6 năm 2009. Tất cả các bài báo liên quan đã được đánh giá theo hướng dẫn của EFNS và PNS. Sau một cuộc họp đồng thuận, các thành viên trong nhóm nhiệm vụ đã tạo ra một bản thảo sau đó được hai chuyên gia (JML và JVS) trong lĩnh vực thần kinh ngoại vi và sinh lý học thần kinh lâm sàng, những người chưa tham gia vào việc sử dụng sinh thiết da, chỉnh sửa lại.

#bệnh thần kinh sợi nhỏ #sinh thiết da #hướng dẫn chẩn đoán #mật độ sợi thần kinh #nghiên cứu lâm sàng
Phân loại và Chẩn đoán phân biệt Bệnh Thận Đái Tháo Đường Dịch bởi AI
Journal of Diabetes Research - Tập 2017 - Trang 1-7 - 2017

Bệnh thận đái tháo đường (DN) là nguyên nhân chính gây bệnh thận giai đoạn cuối trên toàn thế giới, ở cả các nước phát triển và đang phát triển. Bài đánh giá này tóm tắt những thay đổi mô học đặc trưng của DN và phân loại mô học Tervaert, phân loại DN thành bốn loại dựa trên tổn thương cầu thận, cùng với một hệ thống chấm điểm riêng cho tổn thương ống thận, mô kẽ và mạch máu. Với sự không đồng nhất của các tổn thương thận và cơ chế phức tạp gây ra bệnh thận đái tháo đường, phân loại Tervaert vừa có ý nghĩa vừa gây tranh cãi trong việc hướng dẫn chẩn đoán và tiên lượng. Ứng dụng và đánh giá sử dụng phân loại Tervaert cũng như các chỉ định cho sinh thiết thận được tóm tắt trong bài đánh giá này dựa trên các nghiên cứu gần đây. Trong khi đó, chẩn đoán phân biệt với một bệnh cầu thận nốt khác và tình huống mà một bệnh DN điển hình chồng chéo với một bệnh thận không phải đái tháo đường (NDRD) cũng được thảo luận và kết luận trong bài đánh giá này.

#Bệnh thận đái tháo đường #phân loại Tervaert #tổn thương cầu thận #chẩn đoán phân biệt #sinh thiết thận
Proteinuria là một tác dụng phụ khởi phát muộn ở bệnh nhân được điều trị bằng cabozantinib Dịch bởi AI
Journal of Endocrinological Investigation - Tập 44 - Trang 95-103 - 2020
Việc sử dụng các chất ức chế kinase tyrosine (TKIs) ở bệnh nhân ung thư tuyến giáp thường bị giới hạn bởi các tác dụng độc hại. Một số tác dụng độc hại có thể xuất hiện lâu dài và tiềm ẩn ảnh hưởng đến khả năng sống sót của bệnh nhân. Trong số đó, có nephrotoxicity, chủ yếu được biểu hiện bằng protein niệu. Mục tiêu của nghiên cứu là đánh giá tỉ lệ protein niệu ở bệnh nhân ung thư tuyến giáp tủy được điều trị bằng cabozantinib, nhằm xem liệu nó có thể là một dấu hiệu để theo dõi điều trị và đánh giá các biến đổi mô học ở thận. Chúng tôi đã thu thập dữ liệu của 31 bệnh nhân ung thư tuyến giáp tủy tham gia thử nghiệm EXAM. Protein niệu được xác định và đánh giá bằng tiêu chí thuật ngữ chung về các tác dụng phụ của Viện Ung thư Quốc gia. Trong hai trường hợp có triệu chứng với protein niệu nặng, một cuộc sinh thiết thận đã được thực hiện. Protein niệu được phát hiện ở 4/18 bệnh nhân (22,2%) và xuất hiện sau thời gian trung bình 38 tháng (trung vị: 35,5 tháng). Nó có liên quan đáng kể đến hóa trị trước đó (p = 0,005) và/hoặc điều trị bằng các TKIs khác (p = 0,04), việc sử dụng cabozantinib kéo dài (p = 0,0004) và phản ứng hình ảnh tốt hơn vào cuối thời gian theo dõi (p = 0,002). Sinh thiết thận cho thấy các đặc điểm bệnh lý của bệnh vi mạch huyết khối trong cả hai trường hợp và một ổ lắng đọng amyloid. Protein niệu là một tác dụng phụ khá phổ biến trong quá trình điều trị bằng cabozantinib. Nó tương đối dễ quản lý với việc phát hiện sớm và điều chỉnh các yếu tố nguy cơ, tạm thời ngừng sử dụng cabozantinib và/hoặc giảm liều, cũng như việc sử dụng thuốc chống protein niệu và bảo vệ thận ở bệnh nhân có huyết áp cao. Các phát hiện mô học xác nhận một số đặc điểm điển hình của tổn thương do ức chế anti-VEGF, đã được mô tả cho các TKIs khác.
#ung thư tuyến giáp tủy #protein niệu #cabozantinib #tác dụng phụ #sinh thiết thận
KÉN PHẾ QUẢN TRUNG THẤT - BÁO CÁO CA BỆNH VÀ XEM XÉT TÀI LIỆU LIÊN QUAN
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 522 Số 2 - 2023
Kén phế quản (Bronchogenic Cyst - BC) là một tổn thương bẩm sinh, lành tính hình thành trong quá trình phát triển của bào thai. Kén thường liên quan đến đường dẫn khí nên nó có thể xuất hiện tại bất kỳ vị trí nào của đường thở, có thể trong trung thất hoặc nhu mô phổi. Kén phế quản chiếm 10% các khối u trung thất; nam giới gặp nhiều hơn nữ giới. Triệu chứng lâm sàng thường đa dạng, không đặc hiệu, phụ thuộc vào vị trí, kích thước  của tổn thương và tuổi của người bệnh. Phẫu thuật cắt bỏ kén vẫn là lựa chọn tối ưu, hàng đầu đối với tổn thương này. Sau phẫu thuật nếu không có biến chứng bệnh nhân thường khỏi hoàn toàn. Chúng tôi báo cáo một trường hợp được kén phế quản với tổn thương phức tạp nằm trong trung thất giữa, được khám, chẩn đoán xác định bằng sinh thiết xuyên thành ngực dưới hướng dẫn cắt lớp vi tính. Bệnh nhân được phẫu thuật nội soi cắt bỏ kén, sau phẫu thuật bệnh nhân có cuộc sống bình thường.
#Kén phế quản; u trung thất; sinh thiết xuyên thành ngực; chụp cắt lớp vi tính
Đánh giá kết quả sinh thiết xuyên thành ngực dưới hướng dẫn của cắt lớp vi tính kết hợp robot Maxio dẫn đường trong chẩn đoán mô bệnh học các khối u ở phổi
Tóm tắt Mục tiêu: Nhận xét đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và kết quả sinh thiết u phổi xuyên thành ngực dưới hướng dẫn của cắt lớp vi tính kết hợp robot Maxio dẫn đường. Đối tượng và phương pháp: 221 bệnh nhân sinh thiết phổi xuyên thành ngực dưới hướng dẫn của cắt lớp vi tính kết hợp robot Maxio dẫn đường từ tháng 6/2017 đến tháng 2/2019, tại Bệnh viện Ung bướu Nghệ An. Kết quả: Phần lớn các bệnh nhân là nam giới, chiếm tỷ lệ 80,1%. Tuổi trung bình mắc bệnh là 62,5 năm. Khối u có kích thước từ 3 - 5cm chiếm tỷ lệ lớn nhất 57,5%. Tỷ lệ sinh thiết làm giải phẫu bệnh cho kết quả ác tính khá cao 69,6%, trong đó hay gặp nhất là ung thư phổi biểu mô tuyến chiếm 50,6%, tiếp đến là ung thư biểu mô tế bào vảy 19,0%. Các biến chứng hay gặp là tràn khí màng phổi 8,5%, tiếp theo tràn máu màng phổi 2,2%, nhưng chủ yếu ở mức độ nhẹ. Kết luận: Sinh thiết xuyên thành ngực dưới hướng dẫn của cắt lớp vi tính kết hợp robot Maxio cho hiệu quả lấy bệnh phẩm chẩn đoán cao, ít biến chứng. Từ khóa: Sinh thiết xuyên thành ngực dưới cắt lớp vi tính, u phổi, robot Maxio.
#Sinh thiết xuyên thành ngực dưới cắt lớp vi tính #u phổi #robot Maxio
8. Mối liên quan giữa đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và tổn thương thận trên sinh thiết thận ở trẻ viêm thận lupus tăng sinh
Viêm thận lupus (LN) là biến chứng nặng của lupus ban đỏ hệ thống (SLE). Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 73 trẻ LN mới (78,1% nữ và 21,9% nam) có kết quả sinh thiết thận tại thời điểm chẩn đoán LN tăng sinh (lớp III 46,6%, lớp IV 53,4%), tuổi trung bình 10,86 nhằm đánh giá mối liên quan giữa lâm sàng, cận lâm sàng và tổn thương thận trên sinh thiết thận. Triệu chứng hay gặp là tổn thương da (82,2%), thiếu máu (72,6%), phù (65,8%), đái máu (65,8%), đau khớp 43,8% và tăng huyết áp (27,4%). Cao huyết áp và đái máu gặp nhiều ở LN lớp IV hơn lớp III (p < 0,05). Protein niệu ngưỡng thận hư gặp ở 69,9% trẻ, với 50,7% hội chứng thận hư. 39,7% trẻ giảm mức lọc cầu thận (MLCT). MLCT < 90 ml/phút/1,73m2 và protein niệu ngưỡng thận hư làm tăng nguy cơ mắc LN lớp IV với OR lần lượt 3,79 và 4,889 (p < 0,01). Đa số trẻ có mức độ hoạt động bệnh SLE theo thang điểm SLEDAI mạnh và rất mạnh (lần lượt 74% và 9,6%), không có sự khác biệt giữa LN lớp III và IV.
#viêm thận lupus tăng sinh #lâm sàng #cận lâm sàng #sinh thiết thận
Chẩn đoán căn nguyên nốt đơn độc ở phổi tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội
Nốt đơn độc ở phổi được định nghĩa là tổn thương đơn độc trên X quang phổi với kích thước ≤ 3cm, xung quanh là nhu mô phổi lành không gây xẹp phổi, không kèm hạch trung thất hay tràn dịch màng phổi. Đây là dạng tổn thương phổi khá thường gặp, có thể do nhiều nguyên nhân gây nên. Các nguyên nhân lành tính bao gồm: u lao, harmatoma, hạch lympho tại phổi, sarcoidosis, u nấm. Các căn nguyên ác tính gồm: ung thư phổi, ung thư di căn phổi, u lympho… Nghiên cứu của chúng tôi được thực hiện nhằm mô tả các đặc điểm về lâm sàng, cận lâm sàng và căn nguyên nốt đơn độc ở phổi, từ đó giúp các bác sỹ lâm sàng có thêm kinh nghiệm trong việc đưa ra các quyết định quản lý theo dõi các tổn thương này nhằm chẩn đoán và điều trị kịp thời các nốt phổi gợi ý ác tính và tránh những can thiệp không cần thiết đối với các nốt phổi đơn độc có tính chất lành tính. Nghiên cứu mô tả với 50 bệnh nhân nốt phổi đơn độc. Vị trí tổn thương thường gặp là thuỳ trên phổi với 44% là ung thư phổi và 10% viêm lao. Với căn nguyên ung thư phổi, 40% bệnh nhân có kích thước nốt từ 2 đến 3 cm, trong đó 54% là tổn thương dạng nốt đặc.
#Nốt đơn độc ở phổi #sinh thiết phổi xuyên thành ngực.
ÁP DỤNG PHÂN LOẠI OXFORD 2016 TRÊN MẪU SINH THIẾT THẬN TRONG CHẨN ĐOÁN VIÊM THẬN BAN XUẤT HUYẾT HENOCH - SCHONLEIN TẠI BỆNH VIỆN NHI TRUNG ƯƠNG
Ban xuất huyết Henoch - Schonlein (Henoch Schon lein purpura-HSP) là bệnh viêm mạch hệ thống có lắng đọng IgA gây tổn thương trên nhiều cơ quan, trong đó tổn thương thận có thể tiến triển thành bệnh thận giai đoạn cuối. Trong 5 năm trở lại đây (2016-2020), khoa Giải phẫu bệnh chúng tôi đã chẩn đoán cho hơn 70 trường hợp viêm thận HSP sinh thiết trong tổng số gần 500 mẫu sinh thiết thận. Mục đích của nghiên cứu này là nhằm tìm hiểu đặc điểm mô bệnh học theo phân loại Oxford cập nhật 2016 trên các mẫu sinh thiết thận trong viêm thận HSP tại Bệnh viện Nhi Trung ương. Đối tượng, phương pháp: Nghiên cứu hồi cứu ở 70 trẻ viêm thận HSP, tuổi ≤ 15 được sinh thiết thận tại Bệnh viện Nhi Trung ương trong 5 năm (2016-2020). Các đặc điểm mô bệnh học tổn thương thận được đánh giá trên các tiêu bản sinh thiết theo tiêu chuẩn phânloại Oxford cập nhật 2016. Kết quả: Trong nghiên cứu có 49 trẻ nam và 21 trẻ nữ, tỷ lệ nam: nữ là 2,3: 1. Tuổi trung bình của trẻ được sinh thiết thận là 9,58 ± 3,05 tuổi, nhóm từ 6-10 tuổi gặp nhiều nhất (55,7%). Theo phân loại Oxford cập nhật 2016, tỷ lệ các loại tổn thương tăng sinh gian mạch (M1), tăng sinh nội mạch (E1), xơ/ dính cầu thận cục bộ (S1), teo ống thận/ xơ mô kẽ (T1, T2) và liềm (C1, C2) lần lượt là 34 (48,6%), 32 (45,7%), 43 (61,4%), 3 (4,3% và 0%) và 47(51,4% và 15,7%). Kết luận: Phân loại Oxford áp dụng cho chẩn đoán mô bệnh học viêm thận HSP giúp đánh giá toàn diện các chỉ số tổn thương cầu thận (M, E, S, C) và ống thận, mô kẽ (T), từ đó định hướng điều trị và tiên lượng bệnh.
#Ban xuất huyết Henoch - Schonlein #viêm thận HSP #trẻ em
3. Sinh thiết khối u thần kinh đệm lan tỏa thân não: Kết quả 15 ca bệnh tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức
Sinh thiết khối u thần kinh đệm lan tỏa thân não là vấn đề còn chưa được thống nhất giữa các nhà phẫu thuật viên thần kinh. Chúng tôi tiến hành nghiên cứu nhằm đưa ra chỉ định, quy trình và đánh giá kết quả phẫu thuật sinh thiết khối u thần kinh đệm lan tỏa thân não, tiến hành tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức. Nghiên cứu mô tả hồi cứu và tiến cứu, bao gồm 15 bệnh nhân u thần kinh đệm lan tỏa thân não được tiến hành phẫu thuật sinh thiết khối u dưới kính vi phẫu qua đường mở nắp sọ trong thời gian từ tháng 1/2020 đến tháng 8/2022.
#U thần kinh đệm thân não #sinh thiết #lan tỏa
Kiến thức, thái độ, thực hành về mụn trứng cá ở học sinh trung học phổ thông công lập tại Thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận năm 2021
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ học sinh trung học phổ thông công lập tại thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận có kiến thức, thái độ, thực hành (KAP) đúng về bệnh trứng cá. Xác định các mối liên quan giữa đặc tính mẫu và KAP về bệnh trứng cá ở học sinh trung học phổ thông công lập tại thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận. Xác định các mối liên quan giữa kiến thức độ với thực hành về bệnh trứng cá ở học sinh trung học phổ thông công lập tại thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang mô tả tiến hành trên 800 học sinh tại các trường trung học phổ thông công lập tại Thành phố Phan Thiết năm học 2020-2021. Kết quả: Có 27,7% học sinh có kiến thức đúng, 40,4% học sinh có thái độ tốt và 21,2% học sinh có thực hành đúng về bệnh trứng cá. Học sinh nữ có kiến thức đúng bằng 1,45 lần học sinh nam. Học sinh nam có thái độ đúng bằng 1,62 lần học sinh nữ. Khối lớp tăng 01 bậc thì thái độ đúng tăng 0,87 lần. Học sinh nữ có thực hành đúng bằng 1,78 lần học sinh nam. Học sinh lớp 11 có thực hành đúng bằng 1,63 lần học sinh lớp 10. Học sinh có kiến thức đúng có thực hành đúng bằng 1,52 lần học sinh có kiến thức chưa đúng. Kết luận: KAP về bệnh trứng cá ở học sinh trung học phổ thông tại Thành phố Phan Thiết thấp. Giới tính, khối lớp có ảnh hưởng đến KAP và kiến thức đúng giúp nâng cao thực hành về bệnh trứng cá ở học sinh.
#Bệnh trứng cá #KAP bệnh trứng cá và học sinh
Tổng số: 77   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 8